Sửa chữa máy tính Quận Đống Đa tại nhàChi tiết +

CSKH 24/7

Hà Nội khu vực Miền Bắc: 024 3520 2401

TP. Hồ Chí Minh khu vực Miền Nam: 028 3539 8583

Hà Nội Computer | hacom| hanoicomputer joint stock company

HÀ NỘI COMPUTER | HACOMHANOICOMPUTER JOINT STOCK COMPANY

Đống Đa là một quận trung tâm ở Hà Nội, Việt Nam.

Là một trong bốn quận nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, quận hiện có 21 phường, tổng diện tích là 9,95 km² [1]. Đây là quận có nhiều phường nhất của Hà Nội. Theo số liệu thống kê năm 2017 thì dân số của quận là 420.900 người, mật độ dân số trung bình 42.302 người/km², cao gấp 18 lần mật độ dân số chung của toàn thành phố.[1] Quận Đống Đa là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp sản xuất quốc doanh và đặc biệt các hệ thống trường đại học lớn như trường Đại học Giao thông vận tải, trường Đại học Ngoại Thương, trường Đại học Thủy lợi Hà Nội, trường Đại học Y Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội… Quận Đống Đa là một trong những khu vực của thành phố Hà Nội có số di tích nhiều và mang giá trị cao, tiêu biểu là khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng từ năm 1070 dưới triều vua Lý Thánh Tông và trở thành trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Phía bắc giáp quận Ba Đình với ranh giới là các phố Nguyễn Thái Học, Giảng Võ, Láng Hạ, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyên Hồng, Đê La Thành
Phía đông bắc giáp quận Hoàn Kiếm với ranh giới là phố Lê Duẩn
Phía đông giáp quận Hai Bà Trưng với ranh giới là phố Lê Duẩn, đường Giải Phóng và phố Vọng
Phía nam giáp quận Thanh Xuân với ranh giới là đường Trường Chinh, đường Nguyễn Trãi và sông Tô Lịch
Quận có sông Tô Lịch chảy theo đường viền địa giới rồi tách thành 2 sông Sét và sông Lừ. Có một số hồ lớn như hồ Ba Mẫu, hồ Kim Liên, hồ Xã Đàn, hồ Đống Đa, hồ Văn Chương. Trước có nhiều ao, đầm nhưng cùng với quá trình đô thị hóa đã bị lấp. Nhiều hồ trong quận đang bị thu hẹp do san lấp.

Những dấu tích khảo cổ học cho thấy vùng đất thuộc quận Đống Đa được người Việt cổ khai phá từ rất sớm. Năm 1978, khi đào sông Tô Lịch ở giáp ranh 2 làng Hạ Yên Quyết và làng Thượng (huyện Từ Liêm) đã tìm thấy chiếc quan tài bằng cả cây gỗ khoét rỗng với đồ tùy táng, có niên đại được xác định là đầu Công nguyên. Cùng với rìu đá mài ở Quần Ngựa, rìu đồng có vai ở Cống Vị, trống đồng loại I ở Ngọc Hà (quận Ba Đình), tư liệu này góp phần khẳng định tính chất cổ xưa của vùng đất nội thành.

Quận Đống Đa là một phần đất của Kinh thành Thăng Long, phần đất ở nội thành qua các thời kỳ lịch sử đã nhiều lần thay đổi địa dư và tên gọi. Thời nhà Hán là đất huyện Long Biên thuộc quận Giao Chỉ; thời Tống thuộc huyện Tống Bình; đến khi nhà Tùy đặt huyện này làm trị sự của An Nam đô hộ phủ thì Tống Bình trở thành trung tâm chính trị của nước Việt Nam thời đó. Sau đó bọn đô hộ nhà Hán xây tại đây những tòa thành lũy để đề phòng những cuộc nổi dậy của nhân dân, lần đắp lũy lớn nhất vào năm 864 gọi là Đại La Thành. Dấu vết của đoạn đó có thể là đoạn đường La Thành hiện nay. Cũng từ đây, các tên La Thành hay Đại La đã thay thế tên cũ Tống Bình. Vì thế, năm 1010, trong “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ có nói đến việc dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La và sau đó Đại La đổi tên thành Thăng Long. Thăng Long thời Lý gồm 2 khu vực “Thăng Long thành” tức nơi vua ở và thiết triều cùng khu dân cư là nơi làm ăn sinh sống của các hạng sĩ, nông, công, thương gọi là “Thăng Long ngoại thành”, phần lớn quận Đống Đa nay nằm ở khu vực này. Cả 2 khu vực đó lập thành một đơn vị hành chính gọi là Ứng Thiên, đến năm 1014 lại đổi thành phủ Nam Kinh.[4]

Sang thời Trần, năm 1230, được chia thành 61 phường (chưa có tư liệu liệt kê tên 61 phường cũng như chưa biết quận Đống Đa gồm những phường nào). Đời Hồ, Thăng Long được gọi là Đông Đô, sau đó nhà Minh đổi thành Đông Quan [5]. Sau khi chiến thắng quân Minh xâm lược, Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đổi thành Đông Kinh [6].

Năm 1466, Lê Thánh Tông đổi thành Trung Đô. Năm 1469, lại đổi thành phủ Phụng Thiên [7]. Từ đây, sử sách mới ghi cụ thể phạm vi của kinh đô là gồm 2 huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức. Mỗi huyện chia thành 18 phường. Theo Nguyễn Vinh Phúc và Trần Huy Bá thì trong số 36 phường đó, quận Đống Đa nay gồm phần đất của các phường: Vĩnh Xương (khu vực phố Nguyễn Khuyến), Bích Câu (khu vực Cát Linh – Văn Miếu), Thịnh Quang (Thịnh Quang – Tôn Đức Thắng), Xã Đàn (khu vực Xã Đàn – Khâm Thiên), Đông Tác (khu vực ngõ chợ Khâm Thiên – Trung Tự), Kim Hoa (khu vực Kim Liên – Trung Tự). Sang thời Tây Sơn, Thăng Long đổi tên là Bắc Thành vì kinh đô chuyển vào Phú Xuân (Huế).

Sang thời Nguyễn, năm Gia Long thứ 4 (1805), đặt Tổng trấn Bắc Thành, đổi tên huyện Vĩnh Xương thành Thọ Xương, huyện Quảng Đức thành huyện Vĩnh Thuận, phủ Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), nhà vua tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn nhất kể từ khi ra đời chế độ phong kiến Việt Nam [8]. Vua Minh Mạng xóa bỏ Bắc thành (gồm 11 trấn và 1 phủ trực thuộc) ở miền Bắc và lập tỉnh Hà Nội. Phần đất của quận Đống Đa vẫn nằm trên đất 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, tập III thì cuối thế kỷ XIX, huyện Thọ Xương có 8 tổng, 115 thôn, trang trại. Theo sách “Tên làng xã Việt Nam” thì đầu thế kỷ XIX, quận Đống Đa nằm trên địa phận các huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận.

Từ sau khi chiếm được Hà Nội năm 1883, nhất là từ năm 1888, khi đã lấy Hà Nội làm nhượng địa, thực dân Pháp đã cho phá dỡ nhiều phần của Hà Nội xưa, đồng thời quy hoạch xây dựng một đô thị mới theo kiểu Tây phương. Ngày ngày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp đã ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội trước khi có sự công nhận của triều đình Huế. Ngày 1 tháng 10 năm 1888, Triều đình Đồng Khánh ký chỉ dụ cắt Hà Nội dâng cho Thực dân Pháp làm nhượng địa. Đến ngày 3 tháng 10,Toàn quyền Richaud chính thức đưa Hà Nội trở thành một thành phố theo chế độ nhượng địa. Thành phố Hà Nội lúc này chỉ gồm các khu phố nội thành được chia thành 63 phường có diện tích 3 km2 với số dân khoảng 270.000 người.Ranh giới Hà Nội lúc bấy giờ được bắt đầu từ Hồ Tây đi theo hướng Bắc-Nam dọc đường Bưởi đến Cầu Giấy lại chuyển theo hướng Đông-Đông Nam dọc đê La Thành rồi kéo thẳng qua phố Khâm Thiên, đến khu vực Hồ Thiền Quang lại quay về hướng Nam-Đông Nam cho đến làng Lương Yên (nay là phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng). Năm 1889, Hà Nội thành lập ngoại thành Hà Nội, gồm một số xã của các huyện Vĩnh Thuận, Thọ Xương, Từ Liêm, Thanh Trì. Năm 1904, nội thành Hà Nội được chia thành 8 quận. Năm 1915, Ngoại thành Hà Nội đổi thành huyện Hoàn Long (trực thuộc tỉnh Hà Đông). Năm 1942, Pháp sáp nhập một phần huyện Thanh Trì của tỉnh Hà Đông vào Hà Nội, thành lập “Đại lý đặc biệt Hà Nội” gồm huyện Hoàn Long và 22 xã thuộc phủ Hoài Đức, được chia thành 8 tổng, 60 xã. Đống Đa tương ứng với hộ thứ 3 (3C quartier) trong 8 hộ ở nội thành Hà Nội.

Sau Cách mạng Tháng Tám, Hà Nội trở về với vai trò là Thủ đô. Lúc này, Thủ đô Hà Nội gồm 5 khu nội thành và 120 xã ngoại thành [8]. Ngày 14 tháng 5 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ duyệt y chia thành phố Hà Nội ra làm 17 khu, mỗi khu có tên riêng: Khu Trúc Bạch, khu Đồng Xuân, khu Thăng Long, khu Đông Thành, khu Đông Kinh Nghĩa Thục, khu Hoàn Kiếm, khu Văn Miếu, khu Quán Sứ, khu Đại Học, khu Bảy Mẫu, khu Chợ Hôm, khu Lò Đúc, khu Hồng Hà, khu Long Biên, khu Đồng Nhân, khu Vạn Thái và khu Bạch Mai.[9] Ngày 26 tháng 5 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ duyệt y chia ngoại thành Hà Nội ra làm 5 khu [10], mỗi khu có tên riêng: Khu Lãng Bạc, khu Đại La, khu Đống Đa, khu Đề Thám, và khu Mê Linh. Một bộ phận lớn các phường của quận Đống Đa thuộc khu Đống Đa.

Tháng 11 năm 1946, thực hiện chủ trương của Trung ương, chiến khu XI (tức Hà Nội) được thành lập[11]. Để chỉ đạo việc bố trí lực lượng kháng chiến, nội thành Hà Nội chia thành 3 liên khu. Khu vực Đống Đa nay nằm trên địa bàn Liên khu 3 nội thành. Từ cuối năm 1947, địa phận Liên khu 3 – Đống Đa được đổi thành quận 5. Vùng đất Đống Đa bao gồm 5 quận và 1 phần huyện Thanh Trì. Tháng 5 năm 1948, Hà Nội hợp nhất với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Lưỡng Hà. Khu vực ngoại thành Hà Nội được chia làm 2 huyện Trấn Tây và Trấn Nam, lấy đường số 6 làm ranh giới.

Ngày 1 tháng 10 năm 1948, Trung ương Đảng ra chỉ thị tách Hà Nội ra khỏi Lưỡng Hà, chia thành 2 tỉnh cũ là Hà Nội và Hà Đông. Đến tháng 2 năm 1949, Hà Nội chia lại các đơn vị hành chính sau khi cơ sở kháng chiến được hình thành rộng khắp ở nội thành. Hai huyện Trấn Tây và Trấn Nam được chia thành 2 quận 4 và 6. Ở nội thành chia làm 2 Liên khu 1 và 2. Đến ngày 13 tháng 6 năm 1949, Nghị quyết số 142-NQ/KC-Hà Nội của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Hà Nội chia nội thành Hà Nội làm 2 quận, lấy tên là Quận 1, Quận 2 và chia ngoại thành Hà Nội làm 3 quận, lấy tên là Quận 4, Quận 5, Quận 6. Đống Đa lúc này chủ yếu thuộc đất của quận 2 và quận 5.

Sau khi Thủ đô được giải phóng, Ủy ban hành chính Thành phố chia Hà Nội thành 4 quận nội thành gồm 36 khu, 4 quận ngoại thành gồm 46 xã. Đống Đa khi đó nằm trên đất quận 3 (nội thành) và 3 quận ngoại thành là Khâm Thiên (quận 4), Từ Liêm (quận 6) và Thanh Trì (quận 7). Tháng 11 năm 1957, sau bầu cử HĐND Thành phố khóa I, Hà Nội được chia thành 8 quận, Đống Đa gồm phần đất của quận 1 (khu vực ga Hàng Cỏ), quận 3 (khu vực Văn Miếu), quận 4 (khu vực Ô Chợ Dừa), quận 6 (Hào Nam, Thái Thịnh) và quận 7 (xã Phương Liên). Tháng 3/1958, 4 quận nội thành lại được thay thế bằng 12 khu phố, trong đó có các khu Văn Miếu, Bạch Mai, Bẩy Mẫu, Ô Chợ Dừa thuộc quận Đống Đa. Năm 1959, 12 khu phố nội thành lại được chia thành 8 khu phố, trong đó Đống Đa gồm phần đất của các khu Đống Đa, Bạch Mai, Hàng Cỏ.

Ngày 20 tháng 4 năm 1961, Quốc hội khóa II kỳ họp thứ 2 phê chuẩn việc mở rộng Thành phố Hà Nội. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, Chính phủ ra Quyết định 78/CP chia Hà Nội thành 4 khu phố và 4 huyện, Đống Đa được nhập thêm một số làng xã của huyện Thanh Trì (như Kim Liên, Phương Liệt) với diện tích 11,75km2, trở thành khu phố rộng nhất của nội thành, dân số 92.100 người. Ngày 21 tháng 12 năm 1974, HĐND Thành phố quyết định thành lập các tiểu khu. Đống Đa gồm 48 tiểu khu, trong đó có tiểu khu Yên Lãng từ huyện Từ Liêm về. Tháng 12 năm 1978, HĐND Thành phố quyết định sắp xếp lại các tiểu khu. Đống Đa còn 28 tiểu khu, đến năm 1980 số tiểu khu chỉ còn 24. Sau kỳ họp khóa 8 HĐND bàn việc phân cấp quản lý, ngày 10 tháng 6 năm 1981 cấp hành chính khu phố đổi là quận, tiểu khu chuyển thành phường; theo đó quận Đống Đa có 24 phường. Ngày 13 tháng 7 năm 1982, kỳ họp thứ 6 HĐND Thành phố khóa 8 đề nghị Quốc hội phê chuẩn lập 2 phường mới là Kim Giang (tách ra từ xã Đại Kim thuộc huyện Thanh Trì) và Thanh Xuân Bắc (trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã Nhân Chính và Trung Văn thuộc huyện Từ Liêm; điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Tân Triều thuộc huyện Thanh Trì) [12]. Đến đây, quận Đống Đa gồm 26 phường với số dân là 344.558 người, nằm trên diện tích gần 16km2. Thực hiện Nghị định số 74/CP ngày 22/11/1996 của Chính phủ về việc thành lập quận Thanh Xuân, theo đó quận Đống Đa chuyển 5 phường Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt và một phần của 2 phường Nguyễn Trãi, Khương Thượng chuyển sang trực thuộc quận Thanh Xuân[13], đổi tên phần còn lại của phường Nguyễn Trãi thành phường Ngã Tư Sở [14]. Lúc này quận Đống Đa có 21 phường và được duy trì đến ngày nay.

Quận Đống Đa có 21 đơn vị hành chính cấp phường trực thuộc, bao gồm 21 phường [1]: Cát Linh, Hàng Bột, Khâm Thiên, Khương Thượng, Kim Liên, Láng Hạ, Láng Thượng, Nam Đồng, Ngã Tư Sở, Ô Chợ Dừa, Phương Liên, Phương Mai, Quang Trung, Quốc Tử Giám, Thịnh Quang, Thổ Quan, Trung Liệt, Trung Phụng, Trung Tự, Văn Chương, Văn Miếu.[3]

Trả lời